Mời quý độc giả theo dõi VOV.VN trên
Mời quý độc giả theo dõi VOV.VN trên
Theo tài liệu thống kê của Tổng cục Chính trị Quân đội Liên Xô hiện lưu trữ tại Văn khố Bộ Quốc phòng Nga, chỉ tính riêng từ tháng 3/1965 đến tháng 12/1974, đã có 6.359 tướng lĩnh, sĩ quan cùng hơn 4.500 hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội Liên Xô đến Việt Nam công tác. Trong đó có nhiều người đã từng kinh qua cuộc "Chiến tranh vệ quốc vĩ đại" của nhân dân Liên Xô chiến thắng phát xít Đức.
Các tướng lĩnh, sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ Liên Xô công tác ở các cơ quan cố vấn, chuyên gia về tên lửa phòng không, không quân, hải quân, đặc công, biên phòng, tác chiến điện tử, mật mã, thông tin liên lạc, kỹ thuật vũ khí - đạn, quân y, tham mưu chỉ huy, tình báo quân sự. Theo Đại tá KGB Igor Nikolayevich Morozov, đã có 16 sĩ quan, chiến sĩ Liên Xô hy sinh khi làm nhiệm vụ ở Việt Nam trong cuộc Kháng chiến chống Mỹ. Hàng chục sĩ quan, chiến sĩ khác bị thương.
Những chuyên gia quân sự Liên Xô đầu tiên có mặt ở Việt Nam sau năm 1954 là các sĩ quan, chiến sĩ Biên phòng, khi đó thuộc lực lượng dã chiến NKVD (Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô).
Theo một hiệp định về hợp tác trong bảo vệ biên giới quốc gia được ký giữa Việt Nam và Liên Xô, từ năm 1957 đến năm 1961, một nhóm chuyên gia biên phòng Liên Xô do đại tá Nikita Fyodorovich Karatsupa đã được cử sang Hà Nội để huấn luyện cho lực lượng Cảnh vệ nội địa Việt Nam.
Trong nhóm huấn luyện viên Liên Xô có các chuyên gia về tác chiến vùng núi, vùng có địa hình phức tạp; chuyên gia về trinh sát truy tìm; chuyên gia về võ thuật; chuyên gia huấn luyện ngựa, sử dụng ngựa chiến; chuyên gia huấn luyện chó nghiệp vụ... Các chuyên gia Liên Xô còn tặng cho Việt Nam hơn 30 con ngựa giống Buzuluk, loại ngựa chiến hàng đầu nổi tiếng thế giới, gắn bó với truyền thống lâu đời của người Kazak sông Đông.
Sau 18 tháng miệt mài trên các thao trường, quá trình huấn luyện đã thu được kết quả hết sức tốt đẹp. Ngày 3/3/1959, lực lượng Công an Nhân dân vũ trang Việt Nam ra đời theo Quyết định số 100/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc sáp nhập lực lượng Cảnh vệ Nội địa và lực lượng Cảnh vệ Biên phòng Việt Nam.
Công an Nhân dân vũ trang có nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia, bảo vệ các cửa khẩu trên bộ, cảng biển, cảng hàng không cũng như cảnh vệ nội địa với lực lượng ban đầu là Trung đoàn Cảnh vệ nội địa 600, 8 tiểu đoàn biên phòng và các đồn biên phòng được bố trí trên khắp miền Bắc. Một trong các đồn biên phòng của Việt Nam thời kỳ 1959-1964 trên biên giới Việt - Lào đã được mang tên "Karatsupa".
Năm 1960, theo đề nghị của Đảng, Chính phủ Việt Nam, Đảng và Chính phủ Liên Xô đã cử sang Việt Nam một nhóm chuyên gia về hàng không do Thượng tướng không quân Nikolai Semyonovich Skripko (sau này là Nguyên soái) giúp ngành hàng không Việt Nam xây dựng các căn cứ sân bay cùng các trạm điều hành không lưu.
Nhóm chuyên gia này đã thực hiện các chuyến bay quân sự - dân sự đầu tiên giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Vương quốc Lào. Trong nhóm chuyên gia hàng không Liên Xô còn có phi công giáo viên trực thăng Meleyev từng lái trực thăng Mi-4 số hiệu VN-51D chuyên trách đưa Chủ tịch Hồ Chí Minh đi công tác trong nước. Phi công phụ là thiếu úy Trần Ngọc Bích, tốt nghiệp Trường Không quân số 2 của Quân đội Giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA).
Trong nhóm chuyên gia hàng không đầu tiên ấy còn có một phi công kỳ cựu và nổi tiếng khác. Đó là đại tá Sergey Alekseyevich Somov (1920-2011), Anh hùng Liên bang Nga (1996), người chuyên trách lái chính chiếc máy bay vận tải cánh quạt 2 động cơ Lisunov Li-2 mang số hiệu VN-48 chở Chủ tịch Hồ Chí Minh đi công tác ở nước ngoài.
Cũng bắt đầu từ năm 1960, các phi công Việt Nam được các chuyên gia Liên Xô đào tạo lái máy bay dân dụng Lisunov Li-2 và Ilyushin IL-14. Đến năm 1962, nhóm chuyên gia của Thượng tướng không quân N. S. Skripko còn hoàn thành việc giúp đỡ Cục Hàng không Việt Nam quy hoạch xây dựng các sân bay, trong đó có hai căn cứ không quân mới rất quan trọng ở Đa Phúc (nay là Nội Bài) và Cát Bi (Hải Phòng).
Các phi công Liên Xô và Việt Nam đã thực hiện 1.900 chuyến bay chung với tổng số giờ bay tích lũy là 4.270 giờ, vận chuyển 7.460 lượt người và 1.000 tấn hàng hóa.
Trong đó, có các chuyến bay thả dù hàng tiếp tế từ Việt Nam đến các căn cứ của Bộ đội Pathet Lào. Ngày 17/2/1961, trong khi làm nhiệm vụ bay thấp thả hàng tiếp tế cho khu căn cứ Pathet Lào tại Sầm Nưa, thượng úy không quân A. N. Solomin đã hy sinh khi máy bay bị trúng đạn bộ binh từ mặt đất bắn lên. Ông là chuyên gia quân sự đầu tiên của Quân đội Liên Xô hy sinh khi đang công tác tại Việt Nam.
Đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô tại Trung đoàn tên lửa phòng không 238 của Quân đội Nhân dân Việt Nam (Ảnh: Wikimedia).
Từ năm 1965, Liên Xô chủ trương tăng cường giúp đỡ về quân sự cho Việt Nam kháng chiến chống Mỹ mà trước mắt là chống cuộc chiến tranh phá hoại của Không quân và hải quân Mỹ ra miền Bắc Việt Nam. Tháng 2/1965, Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã thông qua Nghị quyết № 525-200, đặt cơ sở cho việc hỗ trợ quân sự cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Cũng trong tháng 2/1965, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Aleksey Nikolaiyevich Kosygin và Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng đã ký một hiệp định liên chính phủ. Theo đó, Liên Xô cam kết viện trợ quân sự và cử chuyên gia, huấn luyện viên, nhân viên kỹ thuật hỗ trợ toàn diện cho Việt Nam trong đẩy lùi các cuộc không kích của Mỹ.
Từ năm 1965 đến năm 1972, Liên Xô đã viện trợ quân sự cho Việt Nam những vũ khí hiện đại gồm tên lửa phòng không S-75; máy bay tiêm kích MiG-17 và MiG-21; máy bay ném bom IL-28, máy bay vận tải An-2, Li-2, IL-14, IL-18,...; pháo phòng không 37mm, 57mm và 100mm; pháo mặt đất 105mm, 122mm và 130mm; xe tăng T-34, PT-76 và T-54; tàu cao tốc phóng ngư lôi, tàu quét mìn, tàu tuần tiễu ven bờ; các giàn radar cảnh giới tầm trung và tầm xa…
Theo thống kê do Bộ Quốc phòng Nga được giải mật năm 1999, từ năm 1965 đến năm 1975, Liên Xô đã viện trợ cho Việt Nam 513.582 tấn hàng quân sự. Trong đó, giai đoạn 1965-1972 là 370.763 tấn.
Số lượng vũ khí, phương tiện mà Liên Xô đã viện trợ trực tiếp cho Việt Nam hoặc gián tiếp (về danh nghĩa) thông qua các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ là rất lớn.
Gồm có: Súng bộ binh; Súng chống tăng; Súng cối các cỡ; Pháo không giật; Lựu pháo: 1.052 khẩu (trực tiếp 789 khẩu).; Pháo cao xạ cỡ nòng 37mm trở lên: 614 khẩu; Tên lửa phòng không SA-75: 94 bộ (mỗi bộ trang bị cho 1 tiểu đoàn) cùng 8.686 quả đạn tên lửa; Tên lửa phòng không vác vai A-72; Tên lửa phòng không S-125: 6 bộ (mỗi bộ trang bị cho 1 tiểu đoàn); Máy bay chiến đấu các loại: 316 chiếc; Tàu chiến các loại: 52 chiếc; Xe tăng các loại: 697 chiếc (trực tiếp 687 chiếc); Radar cảnh giới quốc gia: 40 bộ (trực tiếp 37 bộ) và nhiều vũ khí trang bị khác.
Bộ đội tên lửa phòng không Việt Nam huấn luyện sẵn sàng chiến đấu (Ảnh: Vũ Hoàng - Báo QĐND).
Cùng với khối lượng vũ khí, phương tiện kể trên, Liên Xô đã cử hàng vạn tướng lĩnh, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, cán bộ kỹ thuật sang làm chuyên gia huấn luyện cho bộ đội Việt Nam sử dụng các vũ khí, phương tiện đó.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá các hoạt động, nhân sự và phương tiện, Đảng và Chính phủ Liên Xô đã quyết định thành lập "Đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô" làm việc thường trực ở Việt Nam theo chế độ luân phiên. Nhiệm kỳ của các thành viên trong đoàn có thể từ 9 tháng đến 3 năm tùy theo tình hình chiến sự và vị trí của nhân sự.
Những hoạt động đầu tiên của Đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô ở Việt Nam là cùng phía Việt Nam tham gia khảo sát chiến trường. Đầu năm 1965, Đoàn đã tổ chức cho Nguyên soái pháo binh Liên Xô Pavel Nikolayevich Kuleshov đã dẫn đầu một nhóm sĩ quan cao cấp của Tổng cục pháo binh và tên lửa phòng không thuộc Bộ Quốc phòng Liên Xô (GRAU) tiến hành chuyến đi bí mật khắp đồng bằng Bắc Bộ, Thanh Hóa và Khu 4 cũ.
Kết quả chuyến đi thăm là các bản kiến nghị rất cụ thể về việc tăng cường trang bị cho lực lượng phòng không mặt đất của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Báo cáo tổng hợp của nhóm khảo sát đã kiến nghị trang bị tên lửa phòng không và bổ sung các loại pháo phòng không 37mm và 57mm thay thế cho các khẩu pháo phòng không chiến lợi phẩm Rheinmetall 37mm và Flak 88mm (thu được của phát xít Đức) mà Việt Nam đã dùng trong chiến dịch Điện Biên Phủ vì các nhà máy ở Liên Xô và Đông Âu đã không còn sản xuất đạn cho các loại pháo đó.
Căn cứ kết quả khảo sát, lãnh đạo Đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô cũng đề xuất một kế hoạch chi tiết để đào tạo các kíp chiến đấu của bộ đội Việt Nam sử dụng tên lửa phòng không S-75 là vũ khí phòng không thuộc loại hiện đại khi đó.
Các bạn Liên Xô đã hành động rất khẩn trương. Chỉ 30 ngày sau khi báo cáo được trình về Moskva, tháng 3/1965, Binh chủng Pháo phòng không của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã nhận được hàng trăm khẩu pháo 37mm, hơn 70 khẩu pháo 57mm kèm theo các khí tài ngắm bắn quang - điện tử.
Liên Xô khẳng định, viện trợ cho Việt Nam được thực hiện trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước Xô Viết, tuân thủ các điều ước, hiệp ước và thông lệ quốc tế, trên tinh thần anh em, tương trợ lẫn nhau và tình cảm quốc tế vô sản sâu sắc.
Các chuyên gia tên lửa Liên Xô và bộ đội Việt Nam ở Trại Cau, Thái Nguyên (Ảnh: Tư liệu).
Nhờ những khẩu pháo này, bộ đội cao xạ phòng không Việt Nam đã đánh những trận đầu xuất sắc, bắn hạ nhiều máy bay đối phương. Các phi công thuộc Trung đoàn tiêm kích 921 Sao Đỏ của Binh chủng Không quân Nhân dân Việt Nam trẻ tuổi, ý chí kiên cường bất khuất, chỉ với các máy bay MiG-17 mới được viện trợ có tốc độ dưới tốc độ âm thanh nhưng đã bắn rơi 2 chiếc F-8U của hải quân Mỹ và 2 chiếc cường kích đa năng F-105D có tốc độ siêu âm trong các trận đánh này. Tướng không quân Mỹ William W. Momyer đã phải cay đắng xác nhận "ngày 4/4/1965 là ngày đen tối nhất của Không lực Hoa Kỳ".
Nhà nghiên cứu chính trị, Phó tiến sĩ khoa học Mikhail Antonovich Anaymanov khi sưu tập tài liệu trong kho lưu trữ của Bộ Quốc phòng Nga đã tìm thấy rất nhiều đơn, thư tình nguyện của các sĩ quan và chiến sĩ quân đội Xô Viết khi đó bày tỏ nguyện vọng muốn được sang Việt Nam công tác.
Tuy nhiên, việc chọn lọc được tiến hành rất kỹ lưỡng. Đầu tháng 2/1965, những chuyên gia và cán bộ kỹ thuật tên lửa phòng không đầu tiên được lựa chọn đã tập trung ở căn cứ của Tập đoàn quân phòng không số 4 đóng ở thành phố Sverdlovsk. Chính đơn vị này đã bắn rơi chiếc máy bay trinh sát phản lực U-2 của Mỹ xâm phạm vùng trời Liên Xô ở độ cao 20km, bắt sống trung tá phi công Mỹ Francis Power.
Các tướng lĩnh Liên Xô muốn các sĩ quan chỉ huy tiểu đoàn, sĩ quan điều khiển và các kíp trắc thủ đơn vị đã qua thực chiến bằng tên lửa S-75 này truyền lại kinh nghiệm chiến đấu của họ cho những người đồng chí Việt Nam.
Việc huấn luyện cũng được thực hiện rất nghiêm túc. Các ứng viên được phổ biến những thông tin cơ bản về chiến tranh ở Việt Nam, nghiên cứu kỹ các tài liệu về đất nước và con người Việt Nam từ lịch sử, chính trị cho đến kinh tế, văn hóa cũng như đời sống, phong tục, tập quán của người Việt Nam. Họ phải trải qua nhiều vòng phỏng vấn và trắc nghiệm tâm lý rất kỹ lưỡng.
Đầu tháng 3/1965, những ứng viên được lựa chọn đã được nhận hộ chiếu công vụ. Các sĩ quan nắm giữ các thông tin tuyệt mật về vũ khí, khí tài đều phải dùng bí danh. Họ đến Việt Nam bằng tàu hỏa hoặc máy bay dưới danh nghĩa đi công tác kinh tế thương mại. Đầu tháng 3/1965, đoàn chuyên gia huấn luyện viên và kỹ thuật viên tên lửa phòng không Liên Xô do Đại tá pháo binh Aleksandr Matveyevich Dzyda đã tề tựu đông đủ tại Hà Nội.
Ở Ukraina, Lviv và Kiev đã tổ chức Ngày quốc khánh Ucraina vào ngày 22 tháng 1 năm 1989. Hàng ngàn người tập trung tại Lviv vì một dịch vụ tôn giáo trái phép ở phía trước Nhà thờ St. George. Tại Kiev, 60 nhà hoạt động đã gặp nhau trong một căn hộ ở Kiev để kỷ niệm tuyên bố của Cộng hòa Nhân dân Ucraina năm 1918. Vào ngày 11-12 tháng 2 năm 1989, Hội Ngôn ngữ Ucraina đã tổ chức Đại hội thành lập. Ngày 15 tháng 2 năm 1989, việc thành lập Ủy ban sáng kiến cho sự gia hạn của Giáo hội Chính thống Giáo phận người Ukraina đã được công bố. Chương trình và quy chế của phong trào đã được đề xuất bởi Liên minh Nhà văn Ukraine và đã được xuất bản trên tạp chí Literaturna Ukraina ngày 16 tháng 2 năm 1989. Tổ chức này báo trước những người bất đồng chính kiến Ucraina như Vyacheslav Chornovil.
Vào cuối tháng Hai, các cuộc biểu tình công khai lớn diễn ra tại Kiev để phản đối luật bầu cử, vào đêm trước ngày 26 tháng 3 tới Đại hội đại biểu Liên Xô, và kêu gọi từ chức Bí thư thứ nhất của Đảng Cộng sản Ukraine, Volodymyr Shcherbytsky, đắm mình trong vai trò "mastodon của sự trì trệ". Các cuộc biểu tình trùng hợp với chuyến thăm Ukraina của Tổng thống Xô viết Gorbachev. Vào ngày 26 tháng 2 năm 1989, từ 20.000 đến 30.000 người đã tham gia một dịch vụ tưởng niệm đại kết không được đề cập ở Lviv, đánh dấu kỷ niệm cái chết của nghệ sĩ Ucraina thế kỷ 19 và dân tộc Taras Shevchenko.
Vào ngày 4 tháng 3 năm 1989, Hội Tưởng niệm, cam kết tôn vinh các nạn nhân của chủ nghĩa Stalin và làm sạch xã hội của các thực hành của Liên Xô, được thành lập tại Kiev. Một cuộc biểu tình công khai được tổ chức vào ngày hôm sau. Vào ngày 12 tháng 3, một cuộc họp trước cuộc bầu cử được tổ chức tại Lviv bởi Liên đoàn Helsinki Ucraina và Hội Marian Myloserdia (lòng từ bi) đã bị phân tán dữ dội, và gần 300 người đã bị giam giữ. Vào ngày 26 tháng 3, các cuộc bầu cử đã được tổ chức tại đại hội công đoàn của đại biểu nhân dân; cuộc bầu cử được tổ chức vào ngày 9 tháng 4, 14 tháng 5 và 21 tháng Năm. Trong số 225 đại biểu Ucraina, hầu hết đều là người bảo thủ, mặc dù một số tiến bộ đã thực hiện việc cắt giảm.
Từ ngày 20 đến 23 tháng 4 năm 1989, các cuộc họp trước bầu cử đã được tổ chức tại Lviv trong bốn ngày liên tiếp, thu hút đám đông lên đến 25.000 người. Hành động này bao gồm một một giờ cảnh cáo bạo loạn tại tám nhà máy và tổ chức địa phương. Đây là cuộc đình công lao động đầu tiên tại Lviv từ năm 1944. Vào ngày 3 tháng 5, một cuộc biểu tình trước cuộc bầu cử đã thu hút 30.000 người tại Lviv. Vào ngày 7 tháng 5, Hội Tưởng niệm đã tổ chức một cuộc họp quần chúng tại Bykivnia, một khu mộ tập thể nạn nhân của người Ba Lan bị xử bắn vào thời Stalin. Sau khi một cuộc diễu hành từ Kiev đến trang khu mộ, một cuộc tưởng niệm đã được tổ chức.
Từ giữa tháng 5 đến tháng 9 năm 1989, các giáo sĩ người Công giáo Hy Lạp đã biểu tình phản đối Arbat của Moscow để kêu gọi sự chú ý đến hoàn cảnh của Giáo hội của họ. Họ đặc biệt tích cực trong phiên họp tháng 7 của Hội đồng Giáo hội Thế giới được tổ chức tại Moscow. Cuộc biểu tình kết thúc với các vụ bắt giữ của nhóm vào ngày 18 tháng 9. Vào ngày 27 tháng 5 năm 1989, hội nghị sáng lập của Hội Tưởng niệm khu vực Lviv đã được tổ chức. Vào ngày 18 tháng 6 năm 1989, ước tính 100.000 tín hữu đã tham gia vào các dịch vụ tôn giáo công cộng ở Ivano-Frankivsk ở miền tây Ukraine, đáp ứng lời kêu gọi quốc tế của Hồng y Myroslav Lubachivsky cho một ngày cầu nguyện quốc tế.
Vào ngày 19 tháng 8 năm 1989, Giáo xứ Chính thống Thánh Phêrô và Phao-lô của Nga thông báo sẽ chuyển sang Giáo hội Chính thống Giáo dân Do Thái của Ukraina. Vào ngày 2 tháng 9 năm 1989, hàng chục nghìn người Ukraine đã phản đối dự luật bầu cử dự trữ những ghế đặc biệt cho Đảng Cộng sản và cho các tổ chức chính thức khác: 50.000 người ở Lviv, 40.000 người ở Kiev, 10.000 người ở Zhytomyr, 5.000 người tại Dniprodzerzhynsk và Chervonohrad, và 2.000 ở Kharkiv. Từ ngày 8-10 tháng 10 năm 1989, nhà văn Ivan Drach được bầu làm thủ lĩnh Rukh, Phong trào Nhân dân Ukraine, tại đại hội thành lập của nó ở Kiev. Vào ngày 17 tháng 9, từ 150.000 đến 200.000 người đã hành quân ở Lviv, đòi hỏi sự hợp pháp hóa của Giáo hội Công giáo Hy Lạp Ucraina. Vào ngày 21 tháng 9 năm 1989, việc khai quật một ngôi mộ tập thể bắt đầu ở Demianiv Laz, một bản chất bảo tồn ở phía nam của Ivano-Frankivsk. Vào ngày 28 tháng 9, Bí thư thứ nhất của Đảng Cộng sản Ukraine Volodymyr Shcherbytsky, một sự tiếp quản từ thời Brezhnev, đã được thay thế bởi Vladimir Ivashko.
Vào ngày 1 tháng 10 năm 1989, một cuộc biểu tình hòa bình từ 10.000 đến 15.000 người đã bị giải tán bởi lực lượng dân quân trước sân vận động Druzhba của Lviv, nơi một buổi hòa nhạc kỷ niệm sự thống nhất đất nước của người Ukraine đã được tổ chức. Vào ngày 10 tháng 10, Ivano-Frankivsk là nơi diễn ra cuộc biểu tình trước bầu cử với sự tham dự của 30.000 người. Vào ngày 15 tháng 10, hàng nghìn người tụ họp ở Chervonohrad, Chernivtsi, Rivne và Zhytomyr; 500 ở Dnipropetrovsk; và 30.000 ở Lviv để phản đối luật bầu cử. Vào ngày 20 tháng 10, các tín hữu và giáo sĩ của Giáo hội Chính thống Giáo chủ Tự trị Ukraina đã tham gia vào một hội đồng ở Lviv, là người đầu tiên kể từ khi bị cưỡng bức vào những năm 1930.
Vào ngày 24 tháng 10, Liên Xô Tối cao đã thông qua một đạo luật loại bỏ các ghế đặc biệt cho Đảng Cộng sản và các đại diện của các tổ chức chính thức khác. Vào ngày 26 tháng 10, hai mươi nhà máy ở Lviv đã tổ chức các cuộc đình công và các cuộc họp để phản đối sự tàn bạo của cảnh sát ngày 1 tháng 10 và chính quyền không muốn truy tố những người chịu trách nhiệm. Từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 10, hiệp hội môi trường Zelenyi Svit (bạn bè của trái đất - Ukraine) đã tổ chức đại hội thành lập, và vào ngày 27 tháng 10, Liên Xô Tối cao Ucraina đã thông qua một đạo luật loại bỏ tình trạng đặc biệt của đảng và các tổ chức chính thức khác.
Vào ngày 28 tháng 10 năm 1989, Hội đồng Xô Viết tối cao của Ucraina tuyên bố có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1990, tiếng Ukraina sẽ là ngôn ngữ chính thức của Ukraine, trong khi tiếng Nga sẽ được sử dụng để giao tiếp giữa các nhóm sắc tộc. Cùng ngày Hội thánh của Biến hình ở Lviv rời Giáo hội Chính thống Nga và tự tuyên bố là Giáo hội Công giáo Hy Lạp Ucraina. Ngày hôm sau, hàng ngàn người đã tham dự một lễ tưởng niệm tại Demianiv Laz, và một điểm đánh dấu tạm thời được đặt để chỉ ra rằng một tượng đài cho "nạn nhân của những áp bức 1939-1941" sẽ sớm được dựng lên.
Vào giữa tháng 11, Hội Ngôn ngữ tiếng Ukraina Shevchenko đã chính thức được đăng ký. Vào ngày 19 tháng 11 năm 1989, một cuộc tụ tập công khai tại Kiev đã thu hút hàng ngàn người tang lễ, bạn bè và gia đình đến cuộc nổi dậy ở Ukraine của ba tù nhân của Trại Gulag khét tiếng số 36 tại Perm ở Dãy núi Ural: các nhà hoạt động nhân quyền Vasyl Stus, Oleksiy Tykhy, và Yuri Lytvyn. Phần còn lại của họ được tái tổ chức tại Nghĩa trang Baikove. Vào ngày 26 tháng 11 năm 1989, một ngày cầu nguyện và nhịn ăn được Đức Hồng y Myroslav Lubachivsky tuyên bố, hàng ngàn tín hữu ở miền tây Ukraine đã tham gia vào các buổi lễ tôn giáo giữa Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II và Tổng thống Liên Xô Gorbachev. Vào ngày 28 tháng 11 năm 1989, Hội đồng tôn giáo SSR của Ucraina ban hành nghị định cho phép các hội thánh Công giáo Ucraina đăng ký làm tổ chức pháp lý. Nghị định này được công bố vào ngày 1 tháng 12, trùng với một cuộc họp tại Vatican giữa giáo hoàng và tổng thống Liên Xô.
Vào ngày 10 tháng 12 năm 1989, sự chấp hành chính thức đầu tiên của Ngày Nhân quyền Quốc tế được tổ chức tại Lviv. Vào ngày 17 tháng 12, khoảng 30.000 người đã tham dự một cuộc họp công cộng được tổ chức tại Kiev bởi Rukh để tưởng nhớ người đoạt giải Nobel Andrei Sakharov, người đã chết vào ngày 14 tháng 12. Vào ngày 26 tháng 12, Liên Xô tối cao của Ucraina SSR đã thông qua một đạo luật chỉ định Giáng sinh, Phục sinh và Ngày lễ chính thức của Chúa Ba Ngôi.[23]
Vào tháng 5 năm 1989, một người bất đồng chính kiến Liên Xô, Mustafa Dzhemilev, được bầu làm lãnh đạo Phong trào Quốc gia Crimean Tatar mới thành lập. Ông cũng lãnh đạo chiến dịch đòi trả lại vùng Crimean cho người Tatars ở Crimea sau 45 năm dân tộc này sống ở vùng đất khác.
Tổ chức Hiệp ước An ninh tập thể (CSTO) do Nga lãnh đạo đã nhất trí thành lập một lực lượng phản ứng nhanh để chống khủng bố và đối phó với các trường hợp khẩn cấp của khu vực, truyền thông Nga hôm 4/2 đưa tin.
Quyết định trên được đưa ra một ngày sau khi có tin Kyrgyzstan dự định đóng cửa căn cứ quân sự chiến lược quan trọng của Mỹ ở nước này. Căn cứ không quân Manas ở ở gần thủ đô Bishkek là nơi Washington dùng để chuyển quân và hàng hoá vào Afghanistan.
Hôm 4/2, khối CSTO gồm Nga, Armenia, Belarus, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Uzbekistan và Tajikistan đã quyết định về việc lập lực lượng phản ứng nhanh tại một hội nghị ở Kremlin, hãng tin Ria-Novosti của Nga cho biết.
Hội đồng an ninh của khối đã "dành nhiều thời gian để thảo luận vấn đề cốt lõi của việc lập lực lượng phản ứng chung để có phản ứng nhanh với những mối đe doạ tiềm tàng", Tổng thống Nga Medvedev tuyên bố. "Tất cả các bên đều nhất trí rằng, việc thành lập lực lượng chung là cần thiết".
Các quan chức Nga cho biết, toàn bộ các nước thành viên của khối đã ký thoả thuận, dẫu cho Uzebekistan đề xuất một điều khoản đặc biệt.
Phát ngôn viên của CSTO Vitaly Strugovets cho biết, Uzebekistan không ngại góp quân vào lực lượng phản ứng nhanh nhưng thấy lúc này chưa cần thiết phải gắn mình với lực lượng ứng phó các trường hợp khẩn cấp, lực lượng chống buôn bán thuốc phiện hay bất cứ một lực lượng đặc biệt nào khác.
Theo truyền thông Nga, lực lượng trên sẽ chiến đấu chống lại những kẻ ngoại xâm, tiến hành các chiến dịch chống khủng bố, đấu tranh chống buôn lậu thuốc phiện ở khu vực và đối phó với các thảm hoạ thiên nhiên. Lực lượng phản ứng nhanh sẽ đóng tại Nga và trực thuộc một bộ chỉ huy đơn nhất, các nước thành viên sẽ góp quân.DT- theo Vietnamnet, CNN
Liên Xô là nước đầu tiên trên thế giới xây dựng CNXH và Chủ nghĩa cộng sản. Là quốc gia hùng mạnh, nên sự xuất hiện của nhà nước Liên Xô XHCN đã ảnh hưởng to lớn đến tiến trình lịch sử của nhân loại.Trong thế kỷ XX, sau khi Liên Xô xuất hiện, mọi sự kiện lớn của thế giới – nhiều hay ít – đều có dấu ấn và chịu ảnh hưởng của Liên Xô.
Lịch sử Cách mạng và sự hình thành
Sự hình thành Liên Xô gắn liền với sự sụp đổ của Đế quốc Nga trong Chiến tranh thế giới thứ I và hoạt động của Đảng Cộng sản Nga do V.I.Lênin đứng đầu.Vào đầu thế kỷ XX, xã hội Nga ẩn chứa nhiều mâu thuẫn gay gắt không được giải tỏa; nước Nga lại là nơi có phong trào Marxist cấp tiến mạnh nhất, do Lênin đứng đầu với Đảng Bolshevik chủ trương làm cách mạng XHCN, để xây dựng Chủ nghĩa cộng sản, theo học thuyết của Karl Marc.
Ngày ngày 7/11/1917, V. I. Lênin và các đảng viên Bolshevik Nga đã lãnh đạo các Xô viết làm Cách mạng tháng Mười, lập chính quyền Xô viết của công - nông -binh đầu tiên trên thế giới. Đây là sự kiện quan trọng, có ý nghĩa thời đại đối với lịch sử nhân loại. Sự kiện vĩ đại mà sau này đã ảnh hưởng to lớn tới các cuộc cách mạng XHCN và phong trào giải phóng dân tộc nhiều quốc gia, từ châu Âu, châu Á, Châu Phi, tới Mỹ Latinh, trong đó có Việt Nam.
Ngay sau Cách mạng tháng Mười, nước Nga rơi vào nội chiến cực kỳ đẫm máu. Đến cuối năm 1920, về cơ bản Hồng quân đã giành chiến thắng, quân bạch vệ bị thất bại. Ngày 30/12/1922, 15 nước cộng hòa gia nhập Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết (gọi tắt là Liên Xô). Ngay sau khi thành lập Liên bang Xô Viết; nhân dân Liên xô dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính phủ bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới, cuộc sống XHCN một xã hội không có người bóc lột người. Cả đất nước như một công trường khổng lồ, nên chỉ sau một thời gian ngắn, đã đem lại kết quả tốt: Nạn đói bị đẩy lùi, công nghiệp, thương mại được phục hồi, tình hình nông thôn và thành thị được ổn định, xã hội có tích luỹ và đời sống người dân tốt lên nhanh chóng. Sau khi Lênin mất (năm 1924), I.V. Stalin thay thế V.I.Lênin lãnh đạo đất nước Xô-viết tiến hành công nghiệp hóa XHCN. Kết quả là Liên Xô đã trở thành một nước công nghiệp đứng thứ 2 trên thế giới trong một thời gian rất ngắn (điều này là nền tảng kinh tế cho chiến thắng của Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ II). Mặt khác, những nhân tố mới được giải phóng của cuộc sống mới XHCN (thanh toán mù chữ và giáo dục miễn phí cho trẻ em, hệ thống y tế miễn phí, thực hiện bình đẳng nam nữ, chia ruộng đất cho nông dân, quốc hữu hóa tài nguyên và các nhà máy, mức sống người dân ngày càng được nâng cao...) đã tạo động lực to lớn, mạnh mẽ cho công cuộc xây dựng đất nước. Một số thành tựu của Liên Xô về các lĩnh vực: Giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội...thời gian này đã vượt xa các nước phương Tây như: Anh, Pháp, Mỹ; Đức...Giai đoạn tiến hành Công nghiệp hóa đất nước; Liên Xô đã xây dựng được một loạt các tổ hợp công nghiệp khổng lồ; các nhà máy luyện thép, luyện kim lớn và nhiều khu công nghiệp ở Moskva, Leningrat, Volgograd, Chelyabinsk, Kharkov....Năm 1935, Liên Xô đã khởi công xây dựng tàu điện ngầm ở Moskva với chiều dài hàng chục km. Tới năm 1940, sản lượng công nghiệp của Liên Xô đã tăng gấp 7,7 lần so với năm 1913, Công nghiệp Liên Xô đã chiếm 77,4% cơ cấu nền kinh tế và chiếm 10% toàn thế giới. Cho đến lúc đó, thế giới chưa từng chứng kiến nhịp độ tăng trưởng nào nhanh và ngoạn mục như vậy. Đến trước Chiến tranh thế giới thứ II, từ một nước có nền sản xuất lạc hậu, Liên Xô đã vươn lên trở thành cường quốc công nghiệp thứ 2 thế giới và đứng đầu châu Âu, vượt qua Anh - Pháp- Đức (chỉ đứng sau Mỹ).Thành quả to lớn này đã cho phép Liên Xô chiến đấu và cuối cùng giành chiến thắng vĩ đại trong Chiến tranh thế giới thứ II (1939-1945).
Vai trò của Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ II
Nói đến Liên Xô, ngoài ý nghĩa là nước đầu tiên xây dựng CNXH trên thế giới với đà tăng trưởng hết sức ngoạn mục và nhiều chính sách xã hội nhân văn tốt đẹp, so với các nước Tư bản chủ nghĩa; song bên cạnh đó, cũng phải nói đến vai trò to lớn, quyết định của Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ II, như một bằng chứng là quốc gia đã góp phần quan trọng và quyết định để cứu nhân loại thoát khỏi thảm họa phát xít (do các nước Đức-Ý-Nhật gây ra).
Ngày 22/6/1941 nước Đức Quốc xã tấn công Liên bang Xô viết và bắt đầu "Chiến tranh vệ quốc vĩ đại" của Liên Xô (1941–1945). Liên Xô tham gia vào Khối Liên minh chống phát xít gồm:Anh, Pháp,Mỹ, Úc, New Zealand, Canada, Trung Quốc... Người dân Xô viết đã lao động tự giác, quên mình với nỗ lực phi thường để phục vụ cho chiến tranh. Phần lớn các dân tộc thuộc Liên bang Xô viết đã đoàn kết, hiệp lực tin tưởng vào Đảng cộng sản Liên Xô và lãnh tụ Stalin để đẩy lùi họa phát xít. Thời gian đầu, do bị bất ngờ, quân đội Xô-Viết tuy thất bại, song Hồng quân Liên Xô đã chống trả kiên cường, gây cho quân Đức những tổn thất to lớn. Đến cuối năm 1941, họ đã chặn đứng được quân đội Đức tại cửa ngõ Thủ đô Moskva.Trong các năm 1942 – 1943, Liên bang Xô viết với sự giúp đỡ của quân đồng minh Anh –Pháp-Mỹ, đã tạo được bước ngoặt cơ bản của chiến tranh bằng các chiến thắng Stalingrad và Kursk. Cuối năm 1944, Liên Xô đã giải phóng toàn bộ đất đai của mình; đánh đuổi quân Đức trên lãnh thổ các nước Đông Âu, Trung Âu; Tháng 4 năm 1945, quân đội Xô viết công phá Berlin. Nước Đức Quốc xã sụp đổ và đầu hàng Quân đội Liên Xô vô điều kiện.
Ngay sau chiến thắng đối với Đức, Liên Xô tham chiến chống Nhật Bản và đầu tháng 8 năm 1945, đã dễ dàng đánh tan đạo quân Quan Đông của Nhật Bản tại Mãn Châu. Ngày 15/8/1945, Nhật Bản tuyên bố đầu hàng Đồng Minh và Chiến tranh thế giới thứ II chấm dứt.
Mặc dù có những khó khăn to lớn do hậu quả chiến tranh để lại, song Liên Xô bước ra khỏi chiến tranh với tư thế của người chiến thắng; niềm phấn khởi tự hào lớn lao của nhân dân đối với cường quốc XHCN của mình; đã tạo tiền đề quan trọng để Liên Xô mạnh lên thành siêu cường thế giới sau thế chiếnthứ II.
Liên Xô phục hồi, mở rộng hệ thống Xã hội chủ nghĩa và trở thành cường quốc thế giới
Sau Chiến tranh thế giới thứ II, đất nước Liên Xô bị tàn phá hết sức nặng nề. Chiến tranh thế giới thứ II đã làm cho khoảng 26 triệu người Xô viết thiệt mạng, 1.710 thành phố, thị trấn; hơn 70.000 làng mạc bị phá huỷ, 32.000 cơ sở công nghiệp, 98.000 nông trang tập thể, nhiều công trình văn hóa của Liên bang Xô viết bị phá huỷ, hơn 25 triệu người mất nhà cửa. Tổng cộng, Liên Xô mất gần 30% tài sản quốc gia và gần 1/8 dân số. Tổn thất vật chất ước tính là 2,5 nghìn tỷ rúp, tương đương với 30% toàn bộ của cải của đất nước. Sự phát triển các ngành kinh tế quan trọng bị thụt lùi tới 10 - 15 năm. Trước những tổn thất nặng nề đó, Chính phủ Liên Xô đề ra kế hoạch 5 năm nhằm khôi phục nền kinh tế. Đến năm 1955, GDP của Liên Xô đã đạt khoảng 136 tỷ đôla, đứng thứ 2 thế giới chỉ sau Hoa Kỳ (381 tỷ đôla).
Sau Chiến tranh thế giới thứ II (năm 1945), Liên Xô giúp các nước ở Châu Âu, Châu Á, châu Mỹ - Latinh thành lập nhà nước XHCN, đó là: Tiệp Khắc; Ba Lan, Nam Tư; Bungari; Hungari; Rumani; Cộng hòa Dân chủ Đức, Anbani, Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, Mông Cổ và Cu-ba... Đến năm 1960, trên thế giới đã hình thành phe XHCN, do Liên Xô đứng đầu. Đồng thời nền kinh tế Liên Xô phát triển mạnh mẽ; Khoa học - kỹ thuật, quân sự đã có bước đột phá: chế tạo tên lửa đạn đạo, bom nguyên tử, nhà máy điện nguyên tử v.v.. Công nghệ vũ trụ đã có bước phát triển vượt bậc: Liên Xô đã phóng tàu vũ trụ đầu tiên trên thế giới (vào năm 1959) và đưa con người đầu tiên vào vũ trụ (năm 1961). Những sự việc này ngoài những ý nghĩa quân sự, chiến lược, kinh tế, còn có ý nghĩa tinh thần rất to lớn: nó đánh dấu Liên Xô đã trở thành siêu cường trên thế giới với mục tiêu vươn lên vượt qua Hoa Kỳ.
Theo tài liệu của Chính phủ Mỹ thống kê về kinh tế các nước trên thế giới, năm 1975, tổng sản lượng kinh tế của Liên Xô đã đạt 943,5 tỷ USD (đứng thứ 2 thế giới, sau Hoa Kỳ). Ngoài ra những chỉ số sau đã chứng tỏ công dân Liên Xô được hưởng mức phúc lợi xã hội và ưu đãi rất cao so với các nước cùng thời điểm: Liên Xô là nước đầu tiên trên thế giới quy định chế độ làm việc 8 giờ/ngày; Người dân được đưa tới nơi làm việc bằng phương tiện công cộng mà không phải trả tiền; Người dân được miễn học phí tại mọi cơ sở giáo dục, từ mẫu giáo cho tới đại học; Nhà nước đảm bảo các sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, đại học đều có việc làm sau khi nhận bằng; Người dân được khám & chữa bệnh miễn phí hoàn toàn. ...
Trên bình diện quốc tế, là nước XHCN đứng đầu và hùng mạnh nhất bấy giờ, Liên Xô đã trở thành đối trọng cân bằng với khối Tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu; là biểu tượng, là thành trì, là chỗ dựa “tinh thần và vật chất to lớn” trong phe XHCN và là nguồn viện trợ chính cho các phong trào giải phóng dân tộc tại các nước châu Á- châu Phi - châu Mỹ latinh.
Đối với cách mạng Việt Nam, Cách mạng Tháng Mười Nga và Liên bang Xô Viết có ý nghĩa và ảnh hưởng vô cùng to lớn, với bài học kinh nghiệm sâu sắc trên nhiều phương diện, cả về lý luận lẫn thực tiễn, trong thời kỳ trước; sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cả trong Cách mạng Tháng 8 và hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, cũng như trong cách mạng XHCN và công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ngày hôm nay.
Thật vậy, ngay từ khi bôn ba đi tìm đường cứu nước, cứu dân thoát khỏi ách nô lệ lầm than (đầu thế kỷ XX), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh phát hiện ra giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga và Chủ nghĩa Mác-Lê-nin và Người quyết tâm đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga. Năm 1920, sau khi đọc Sơ thảo “Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lê-nin đăng trên Báo L’Humanité (Pháp), Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra “cẩm nang thần kỳ” cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Khi nói về sự kiện này, Người nhớ lại: “Luận cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ và tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong phòng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta...”. Tiếp theo, trong quá trình hoạt động cách mạng (trước năm 1945), được sự quan tâm của Liên Xô và Quốc tế cộng sản, nhiều chiến sĩ cách mạng tiền bối của Việt Nam đã được cử sang Liên Xô học tập như: Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai ... để sau nay về nước chỉ đạo cách mạng Việt Nam; phát động toàn dân, giành chính quyền về tay công - nông; lập nên nước Việt Nam Dân chủ công hòa (2/9/ 1945).
Đặc biệt, nhờ sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa của Đảng Cộng sản Liên Xô và nhân dân Liên Xô anh em về mọi mặt vật chất và tinh thần, trong đó có nhiều vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng (kể cả việc đào tạo nhiều thế hệ cán bộ, chuyên gia cho Việt Nam và cử nhiều đoàn chuyên gia sang Việt Nam công tác..); để giúp Việt Nam đứng vững và tiếp tục đánh thắng các đế quốc lớn như: Pháp, Nhật, Mỹ, thu giang sơn về một mối, đưa dân tộc ta vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới. Một minh chứng hùng hồn nữa là sau khi Việt Nam thống nhất đất nước (tháng 4 năm 1975), Đảng và nhân dân Liên Xô vẫn tiếp tục sát cánh với Đảng ta, nhân dân ta trên bước đường xây dựng đất nước, giúp Việt Nam nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, sớm thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu: với nhiều công trình mang tầm vóc thế kỷ, mang dấu ấn thời đại; để cho đến hôm nay; nhiều công trình của Việt Nam được nhân dân Liên Xô hỗ trợ, giúp đỡ, dựng xây vẫn đang phát huy giá trị to lớn; góp phần vào tăng trưởng kinh tế cho Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tròn một thế kỷ đã trôi qua, kể từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga 1917, tuy đời sống chính trị xã hội thế giới có những biến đổi sâu sắc (kể cả việc Liên Xô và một số nước XHCN ở châu Âu lâm vào khủng hoảng và tan rã đầu những năm 90 của thế kỷ XX), nhưng tầm vóc, ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười Nga vẫn nguyên giá trị đối với nhân loại tiến bộ trên thế giới. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức bóc lột trên trái đất đứng lên tự giải phóng…Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.
Người viết bài này đã từng có thời gian sống và học tập tại Liên Xô trong thập niên 70 – 80 của thế kỷ XX. Cũng như nhiều cán bộ, học sinh Việt Nam sang Liên Xô công tác, học tập, làm việc, chúng tôi sẽ không bao giờ quên được những tình cảm và sự đùm bọc rất chân tình, nồng thắm, thủy chung, bền chặt của người dân Liên Xô, đất nước Liên Xô dành cho mình và tổ quốc Việt Nam yêu dấu trong thời kỳ chiến tranh giữ nước, cũng như xây dựng hòa bình sau này (với nhiều công trình thế kỷ mang dấu ấn Việt-Xô, như: Cầu Thăng Long; Nhà máy Thủy Điện Hòa Bình, Nhà máy nhiệt điện Phả Lại; Cung Lao động hữu nghị Việt -Xô; Bệnh viện hữu nghị Việt -Xô; Đại học Bách khoa Hà Nội). Đó là những tình bạn, tình đồng chí, anh em XHCN thắm thiết nhất, trách nhiệm, cao thượng và đầy đủ nhất ... vượt cả không gian và thời gian, đã làm nên trang sử vàng của tình hữu nghị các dân tộc anh em trong phe Xã hội chủ nghĩa.