Quốc Gia Không Nợ

Quốc Gia Không Nợ

Nợ công (Public Debt) là khoản nợ của một quốc gia với người cho vay bên ngoài quốc gia đó. Người cho vay ở đây có thể là các cá nhân, doanh nghiệp hay các chính phủ nước khác. Thuật ngữ nợ công thường được sử dụng phổ biến hơn so với nợ chính phủ, nợ quốc gia.

Nợ công (Public Debt) là khoản nợ của một quốc gia với người cho vay bên ngoài quốc gia đó. Người cho vay ở đây có thể là các cá nhân, doanh nghiệp hay các chính phủ nước khác. Thuật ngữ nợ công thường được sử dụng phổ biến hơn so với nợ chính phủ, nợ quốc gia.

Mặt tiêu cực của nợ công là gì?

Các nhà đầu tư thường đo lường mức độ rủi ro bằng cách so sánh nợ với tổng sản lượng kinh tế của một quốc gia (tổng sản phẩm quốc nội – GDP). Tỷ lệ nợ trên GDP cho thấy khả năng chính phủ có thể trả hết nợ. Các nhà đầu tư thường không quan tâm cho đến khi tỷ lệ nợ trên GDP đạt tới mức tới hạn.

Khi các khoản nợ đến mức nghiêm trọng, các nhà đầu tư thường yêu cầu mức lãi suất cao hơn bù cho khả năng rủi ro cao hơn. Nếu khi đó quốc gia đó vẫn tiếp tục chi tiêu mạnh tay, khiến trái phiếu nhận được xếp hạng S & P thấp hơn, khả năng vỡ nợ của quốc gia đó sẽ tăng cao.

Các nhà đầu tư nước ngoài tăng lãi suất để đổi lấy rủi ro vỡ nợ cao, điều đó khiến cho các thành phiền của mở rộng kinh tế như nhà ở, tăng trưởng kinh doanh và cho vay tự động đắt đỏ hơn. Như vậy, để tránh các gánh nặng này, các chính phủ sẽ cẩn thận tìm ra điểm tới hạn của nợ công, đủ lớn để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đủ nhỏ để giữ mức lãi suất ở thấp.

EasyBooks – Phần mềm kế toán điện tử TIẾT KIỆM – LINH HOẠT – NHANH CHÓNG nhất hiện nay.

Liên hệ để được tư vấn về phần mềm kế toán

Điện thoại: 0981 772 388 – 0919 510 089

Facebook: Phần mềm kế toán EasyBooks

Địa chỉ: Nhà khách ATS, số 8 Phạm Hùng, Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội

VỠ NỢ CÔNG và những điều bạn nên biết !!!

Nhiều người liên tưởng việc một quốc gia vỡ nợ giống như một cá nhân hay doanh nghiệp vỡ nợ, theo kiểu sẽ bị các chủ nợ bán đấu giá tài sản cho các nước khác để chia nhau theo tỷ lệ nợ chiếm hữu, nhưng như vậy thì quốc gia đó sẽ tồn tại thế nào trên bản đồ thế giới.

Theo số liệu thống kê, trên thế giới rất nhiều quốc gia đã vỡ nợ không chỉ một lần theo nhiều kiểu khác nhau, được chính thức tuyên bố hay âm thầm giải quyết bằng quyền lực nhà nước thông qua các công cụ tài chính, do đó những hiểu biết về nó vẫn chưa phải là điều dễ hiểu kể cả chính công dân trong những quốc gia đó được biết.

Lịch sử những vụ vỡ nợ nổi tiếng

Vụ vỡ nợ lớn đầu tiên xảy ra tại Tây Ban Nha vào năm 1557, dưới thời vua Philip II sau khi quốc gia này đã trải qua không dưới 4 lần vỡ nợ trước đó do chi phí quân sự tăng cao và sự giảm giá của vàng. Sau đó, Tây Ban Nha tiếp tục vỡ nợ 15 lần nữa trong khoảng thời gian 1557-1939.

Tính từ năm 1800 đến nay, khu vực Nam Mỹ là nơi có các quốc gia vỡ nợ nhiều lần nhất. Theo thống kê của Carmen Reinhart và Kenneth Rogoff, Ecuador và Venezuela là hai quốc gia vỡ nợ nhiều nhất kể từ năm 1800 với 10 lần. Xếp thứ hai là bốn quốc gia Brazil, Costa Rica, Chile và Uruguay với 9 lần vỡ nợ.

Mới đây nhất, vẫn là Argentina khi quốc gia Nam Mỹ đã lâm vào vỡ nợ do không thanh toán khoản nợ 1,33 tỷ USD cho 2 quỹ đầu tư của Mỹ khi hạn thanh toán đã trôi qua. Đây là lần vỡ nợ lần thứ 2 của Argentina trong vòng 13 năm và hiện nay là Hy Lạp đang trong vòng khủng hoảng nợ công

Điều gì sẽ xảy ra sau khi một quốc gia vỡ nợ?

Cho tới nay vẫn chưa có luật quốc tế hoặc tòa án quốc tế quy định các trường hợp quốc gia vỡ nợ. Điều này cũng giúp giải thích tại sao các trường hợp vỡ nợ lại rất đa dạng. Khác với doanh nghiệp hoặc cá nhân khi vỡ nợ phải rời khỏi ngành kinh doanh và tuyên bố phá sản, được bảo hộ phá sản theo quy định của pháp luật, một quốc gia khi vỡ nợ phải đối mặt với nhiều lựa chọn tùy khác nhau theo tình hình thực tế của mỗi quốc gia. Trong khoảng thời gian này, các quốc gia đã từng tuyên bố phá sản thường thực hiện một số hình thức như sau:

- Một quốc gia khi vỡ nợ không đồng nghĩa với việc đã mất đi tất cả do vẫn sở hữu và có thể bán lấy tiền trả nợ hoặc cho thuê thu tiền một lần với thời gian dài những tài sản quốc gia có giá trị lớn như quyền khai thác tài nguyên, khoáng sản, đất đai … đây là biện pháp trước mắt, hiệu quả nhất thường đã được tính đến trước khi tuyên bố phá sản;

- Tái cấu trúc nợ: Xu hướng tái cấu trúc nợ trở nên phổ biến đó là việc quốc gia vỡ nợ sẽ đổi những khoản nợ cũ không trả được bằng những khoản nợ mới (đảo nợ), nhằm giảm giá trị các khoản nợ và có thêm thời hạn để chi trả hoặc thỏa thuẩn chuyển các khoản đang bị nợ chưa đòi được cho các chủ nợ (gán nợ), tất nhiên là theo một giá mà chủ nợ được chấp nhận;

- Hạ giá đồng nội tệ, thả nổi tỷ giá thanh toán quốc tế là giải pháp phổ biến để giảm bớt áp lực nợ, trong trường hợp một quốc gia chủ động hạ giá đồng nội tệ để trả nợ dễ dàng hơn, việc định giá tiền tệ thấp hơn cũng sẽ hỗ trợ cho xuất khẩu và ngành sản xuất trong nước, qua đó giúp tái phục hồi nền kinh tế;

- Đơn phương điều chỉnh giảm lãi suất trái phiếu chính phủ so với mức cam kết ban đầu hoặc kéo dài thời hạn thanh toán hoặc thậm chí tuyên bố không chi trả được khoản nợ trái phiếu nước ngoài ví dụ như vụ vỡ nợ năm 2001, Argentina đã từng từ chối thanh toán nợ quốc tế lên tới 105 tỷ USD;

- Thỏa thuận với chủ nợ không chi trả theo mệnh giá mà theo một tỷ lệ tối đa có thể và hoặc chấp nhận trở thành con nợ của các quỹ phi chính phủ (còn gọi là quỹ kền kền) khi mua lại các khoản nợ với giá rẻ mạt và dự kiến sẽ phải đối phó với các vụ kiện quốc tế đòi nợ trong tương lai.

- Biện pháp "thắt lưng buộc bụng", việc này có tính hai mặt khi giảm được chi tiêu công nhưng trong khi nền kinh tế nội địa đang phụ thuộc vào chi tiêu công thì hạn chế chi tiêu công lại là một vòng luẩn quẩn kéo nền kinh tế chậm phát triển và thu nhập người dân ngày càng thấp và giá cả trượt dốc không phanh, tệ hơn là phải tính toán để cắt giảm lương hưu và các khoản trợ cấp xã hội khác.

- Hiệp thương với các nước chủ nợ ép phải "cải cách hành chính", bị can thiệp vào một số vấn đề điều hành nội bộ đất nước (mất độc lập tạm thời) để nhận được những gói cứu trợ, gia hạn nợ có điều kiện và đối phó với làn sóng phản đối trong nước do các chính sách này sẽ ảnh hưởng quá nhiều đến đời sống người dân.

- Ép chủ nợ cho vay thêm kèm theo những điều khoản có lợi từ các thỏa thuận kinh tế khác (bia kèm lạc) như lãi suất cao, ưu tiên đầu tư một số lĩnh vực đang hạn hạn chế … miễn là bên cho vay cảm thấy có lợi, chấp nhận được và hoặc cho vay thêm để có cơ hội thu lại khoản nợ cũ cũng là một cách phổ biến trong tín dụng tại các nước phát triển.

- Chuẩn bị đối phó với làn sóng rút tiền ồ ạt khỏi Ngân hàng và thị trường ngoại tệ tăng đến chóng mặt, mất khả năng kiểm soát tỷ giá hối đoái ngoại tệ và vàng do người dân lo lắng về sự mất giá của đồng tiền nội tệ theo một số hình thức cơ bản như quy định chi trả theo tỷ lệ nhất định hoặc tạm thời đóng cửa ngân hàng, kiểm soát chặt thị trường mua bán ngoại tệ, vàng trong nước.

Do đặc thù pháp luật và điều kiện kinh tế của các quốc gia khác nhau nên việc dự đoán khả năng vỡ nợ là điều khó khăn, ngay cả khi mọi thứ được nhận định là rất ảm đạm đối với một quốc gia.

Ví dụ như, các chuyên gia phân tích đã từng cảnh báo về nợ công của Nhật Bản trong vòng ít nhất 12 năm, nhưng nền kinh tế này vẫn đứng vững với nợ công tương đương 230% GDP, bất chấp giảm phát kéo dài hơn 1 thập kỷ. Trong khi đó, nhiều quốc gia đã vỡ nợ khi tỷ lệ nợ công chưa tới 60% GDP.

Vì vậy, việc dự báo vỡ nợ thường không dễ dàng. Nghiên cứu mới của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) do Andrea Pescatori, Damiano Sandri và John Simon thực hiện với đề tài: "Debt and Growth: Is There a Magic Threshold?" đã chỉ ra rằng: không tồn tại ngưỡng an toàn của nợ công.

"Chúng tôi không tìm thấy bằng chứng nào về một ngưỡng nợ công đặc biệt mà vượt qua ngưỡng đó, triển vọng tăng trưởng trong trung hạn bị tổn hại một cách đáng kể", 3 nhà nghiên cứu của IMF khẳng định.

Nghiên cứu này đã bác bỏ kết luận trước đó về ngưỡng nợ công 90% GDP của Carmen Reinhart và Kenneth Rogoff khi cho rằng, tỷ lệ nợ công/GDP của một quốc gia vượt quá 90%, GDP của quốc gia đó sẽ giảm 0,1% và ngược lại, nếu tỉ lệ này dưới 90% thì tăng trưởng GDP bình quân đạt khoảng 3%-4%.

NỢ CÔNG THEO LUẬT SỐ 20/2017/QH14

Ngày 23/11/2017 Quốc Hội thông qua Luật số: 20/2017/QH14 về Quản lý Nợ công, Luật được thông qua gồm 10 chương với 63 điều, quy định về quản lý nợ công, bao gồm hoạt động vay, sử dụng vốn vay, trả nợ và nghiệp vụ quản lý nợ công.

Nợ công quy định tại Điều 4 bao gồm:

- Nợ do Chính phủ phát hành công cụ nợ;

- Nợ do Chính phủ ký kết thỏa thuận vay trong nước, nước ngoài;

- Nợ của ngân sách trung ương vay từ quỹ dự trữ tài chính của Nhà nước, ngân quỹ nhà nước, quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách.

2. Nợ được Chính phủ bảo lãnh bao gồm:

- Nợ của doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh;

- Nợ của ngân hàng chính sách của Nhà nước được Chính phủ bảo lãnh.

3. Nợ chính quyền địa phương bao gồm:

- Nợ do phát hành trái phiếu chính quyền địa phương;

- Nợ do vay lại vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài;

- Nợ của ngân sách địa phương vay từ ngân hàng chính sách của Nhà nước, quỹ dự trữ tài chính cấp tỉnh, ngân quỹ nhà nước và vay khác theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.

Luật có hiệu lực từ ngày 01/07/2018

Ngô Gia Cường - Tổng hợp và phân tích

Thời gian gần đây dư luận trở nên hoang mang và xôn xao trước thông tin Mỹ - Cường quốc kinh tế nhất nhì thế giới đứng trước nguy cơ vỡ nợ công quốc gia. Thông tin này đã khiến nhiều người đặt ra câu hỏi nợ công là gì? Vỡ nợ công là gì? Trước đây từng có bao nhiêu quốc gia rơi vào tình trạng vỡ nợ? Cùng nhau tìm hiểu nhé!

Nợ công là khoản vay của chính phủ đối với cá nhân doanh nghiệp trong/ngoài nước hoặc chính phủ nước khác

Theo Luật Quản lý nợ công 2017, thì nợ công bao gồm:

- Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ.

- Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ do doanh nghiệp, ngân hàng chính sách của Nhà nước vay được Chính phủ bảo lãnh.

- Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ phát sinh do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh vay.

Nói một cách dễ hiểu thì nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của chính phủ (bao gồm mọi cấp từ trung ương đến địa phương), khi mà nhu cầu chi tiêu của chính phủ lớn hơn số thuế, phí, lệ phí thu được thì Nhà nước phải đi vay tiền của cá nhân, doanh nghiệp trong và ngoài nước hoặc chính phủ các nước khác để để bù/tran trải cho các khoản thâm hụt ngân sách nhà nước của quốc gia đó.

Để đánh giá quy mô nợ của chính phủ một quốc gia nào đó, người ta thường dựa vào việc so sánh tổng khoản nợ của quốc gia bằng bao nhiêu phần trăm so với tổng GDP của quốc gia đó.

Vỡ nợ công quốc gia khi chính phủ không có khả năng không muốn thanh toán khoản vay

Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) thì vỡ nợ được hiểu một cách đơn giản là thất hứa hoặc vi phạm thỏa thuận.

Tương tự, khi một Chính phủ của quốc gia vay tiền từ chủ nợ trong và ngoài nước, thì Chính phủ có nghĩa vụ phải trả lãi trên các khoản vay đó theo thỏa thuận ban đầu. Tuy nhiên, một khi chính phủ không có khả năng hoặc không muốn thanh toán một phần hoặc toàn bộ số nợ với người cho vay khi tới hạn đồng nghĩa với việc chính phủ của quốc gia đó đang bị vỡ nợ công quốc gia.

Nhiều quốc gia vỡ nợ trong quá khứ

3. Các quốc gia nào trên thế giới từng vỡ nợ

Theo các báo cáo được tổng kết có 19 vụ vỡ nợ liên quan đến 13 quốc gia trong vòng 19 năm tính từ từ 2000 - 2019. Một số vụ vỡ nợ quốc gia quy mô lớn giai đoạn này có thể kể đến:

Theo báo cáo mới nhất của hãng xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings chỉ trong vòng khoảng 3 năm từ năm 2020 đến quý 1 năm 2023 thế giới đã xảy ra 14 vụ vỡ nợ liên quan đến chín quốc gia bao gồm Belarus, Liban, Ghana, Sri Lanka, Zambia, Argentina, Ecuador, Suriname và Ukraine.

Theo WB, có tổng cộng 74 quốc gia có thu nhập thấp trên thế giới trong năm 2022 sẽ phải thanh toán 35 tỷ USD, tăng đến 45% (10,9 tỷ USD) so với số tiền đã trả vào năm 2020. Nếu không thanh toán đúng hạn thì các quốc gia sẽ đứng trước nguy cơ vỡ nợ. Trong đó, Sri Lanka, Ghana, El Salvador và Honduras là các quốc gia có nguy cơ vỡ nợ cao nhất.

Xây dựng hành lang pháp lý, chiến lược cụ thể phù hợp để quản lý nợ công hiệu quả hạn chế rủi ro, đảm bảo thanh toán được trong mọi hoàn cảnh

4. Các nước cần làm gì để tránh tình trạng vỡ nợ quốc gia?

Từ bài học các nước vỡ nợ, để tránh tình trạng vỡ nợ công quốc gia, các nước cần:

Nợ công Việt Nam giảm mạnh trong những năm gần đây

5. Nợ công của Việt Nam giảm mạnh

Bản tin nợ công số 15 về tình hình nợ công của Việt Nam từ năm 2018 đến tháng 6/2022 được công bố bởi Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại - Bộ Tài chính cho thấy tín hiệu vô cùng lạc quan về nợ công của Việt Nam.

Theo đó thì từ năm 2018 đến  giữa năm 2022 tỷ lệ nợ công của Việt Nam  so với tổng sản phẩm quốc dân (GDP) có xu hướng giảm từ 58,3% GDP (năm 2018) xuống còn 43,1% vào năm 2021. Đặc biệt, nợ nước ngoài của quốc gia giảm chỉ còn 38,4% GDP so với năm 2018 là 46% GDP.

Trong đó, tính đến nửa đầu năm 2022 Nhật Bản (cho Chính phủ Việt Nam vay hơn 274.000 tỷ đồng); Hàn Quốc (cho vay hơn 28.000 tỷ đồng), Pháp (cho vay hơn 27.000 tỷ đồng); Đức cho vay hơn 12.000 tỷ đồng),… được xem là những chủ nợ song phương chủ yếu của Việt Nam.

Trong các chủ nợ song phương thì Ngân hàng Thế giới (WB) cho chính phủ Việt Nam vay nhiều nhất khoảng hơn 350.000 tỷ đồng (tính đến nửa đầu năm 2022). Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho Việt Nam vay hơn 180.000 tỷ đồng trong khi đó, các tổ chức khác cho Việt Nam vay khoảng 12.000 tỷ đồng.

Nợ công quốc gia là vấn đề nóng ở các nước kém phát triển, đang phát triển, thậm chí là các quốc gia phát triển. Đầu tư hiệu quả, nợ công an toàn luôn là ưu tiên của các chính phủ hiện nay. Cùng đón chờ diễn biến mới về nợ công của chính phủ các nước cùng cách giải quyết vấn đề của họ nói chung và Việt Nam nói riêng trong thời gian sắp tới nhé.

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Vỡ nợ quốc gia (tiếng Anh: sovereign default) là việc chính phủ của một quốc gia có chủ quyền không hoàn trả đầy đủ các khoản nợ của mình khi đến hạn. Việc ngừng các khoản thanh toán có kỳ hạn (hoặc các khoản phải thu) có thể đi kèm với tuyên bố chính thức của chính phủ rằng họ sẽ không thanh toán (hoặc chỉ trả một phần) các khoản nợ của mình, hoặc có thể không được thông báo trước. Cơ quan xếp hạng tín nhiệm sẽ tiến hành tính toán việc xếp loại vốn, lãi suất, các khoản nợ không liên quan, thủ tục vỡ nợ, và việc không tuân thủ các điều khoản của trái phiếu hoặc các công cụ nợ khác.

Các quốc gia đôi khi rũ bỏ một số gánh nặng nợ nần thực sự của họ thông qua lạm phát. Điều này không phải là "vỡ nợ" theo nghĩa thông thường bởi vì khoản nợ vẫn được tuân thủ, mặc dù với tiền tệ có giá trị thực thấp hơn. Đôi khi các chính phủ còn chủ động phá giá tiền tệ của họ. Điều này có thể được thực hiện bằng cách in thêm tiền để chi trả cho các khoản nợ của chính họ, hoặc bằng cách chấm dứt hoặc thay đổi khả năng quy đổi của đồng tiền của họ thành kim loại quý hoặc ngoại tệ theo tỷ giá xác định. Việc này khó định lượng hơn là lãi suất hoặc nợ gốc, và thường được định nghĩa là một khoản vỡ nợ không liên quan hoặc theo thủ tục (vi phạm) các điều khoản của hợp đồng hoặc các công cụ khác.

Một chính phủ có chủ quyền theo định nghĩa được tự kiểm soát công việc của chính mình, nên nó cũng có thể không có nghĩa vụ phải trả nợ.[1] Tuy nhiên, các chính phủ có thể phải đối mặt với áp lực nặng nề từ các quốc gia cho vay. Trong một số trường hợp cực đoan, một quốc gia chủ nợ lớn đã đe dọa chiến tranh hoặc gây chiến với quốc gia con nợ không chịu trả nợ để chiếm đoạt tài sản. Ví dụ năm 1882, Vương quốc Anh đã xâm lược Ai Cập hay việc "ngoại giao pháo hạm" của Hoa Kỳ ở Venezuela vào giữa những năm 1890 và việc Hoa Kỳ chiếm đóng Haiti bắt đầu từ năm 1915.[2] Mãi đến khi Hiến chương Liên hợp quốc được thành lập, trong đó tại Điều 2 mới cấm các quốc gia sử dụng vũ lực với một quốc gia có chủ quyền khác.

Các quốc gia chủ nợ cũng như nền kinh tế và các công dân của quốc gia vỡ nợ đều chịu ảnh hưởng bởi sự vỡ nợ quốc gia.

Cái giá phải trả ngay lập tức đối với các chủ nợ là mất toàn bộ gốc và lãi đối với các khoản cho vay của họ đối với quốc gia không trả được nợ.

Trong trường hợp này thông thường sẽ kết thúc bằng các đàm phán quốc tế nhằm hủy bỏ một phần nợ (ví dụ: Thỏa thuận Luân Đôn về các khoản nợ bên ngoài của Đức năm 1953[3]) hoặc cơ cấu lại nợ (ví dụ: Brady Bonds vào những năm 1980).

Khi một quốc gia không trả được nợ, nhà nước nước đó sẽ hủy bỏ (hoặc bỏ qua, tùy thuộc vào quan điểm) các nghĩa vụ tài chính / các khoản nợ của mình đối với một số chủ nợ nhất định. Hiệu quả tức thì của việc này là giảm tổng số nợ và giảm các khoản thanh toán đối với lãi của khoản nợ đó. Tuy nhiên một vụ vỡ nợ có thể gây tổn hại nghiêm trọng đến uy tín của nhà nước quốc gia này đối với các chủ nợ, điều này cũng đồng nghĩa với việc có thể bị hạn chế khả năng quốc gia đó trong việc nhận được tín dụng từ thị trường vốn.[4] Trong một số trường hợp, quốc gia cho vay có thể cố gắng phá hoại chủ quyền tiền tệ của quốc gia con nợ hoặc thậm chí tuyên chiến.[2]